GcMAF – Yếu tố kích hoạt đại thực bào có nguồn gốc từ protein
Điều trị bằng GcMAF là liệu pháp kích hoạt đại thực bào hiệu quả cao, được sử dụng để kích thích hệ thống miễn dịch và kích hoạt các đại thực bào để chúng có thể tiêu diệt các tế bào ung thư và các tế bào bất thường khác trong cơ thể.
Nghiên cứu
GcMAF (Yếu tố kích hoạt đại thực bào có nguồn gốc từ protein Gc) xuất hiện tự nhiên trong cơ thể chúng ta và kích hoạt các đại thực bào để tiêu diệt các tế bào ung thư và những kẻ xâm lược ngoại lai như vi khuẩn và virus. Các loại như ung thư, HIV, viêm gan,… thường tấn công và phá hủy GcMAF của chúng ta, khiến hệ miễn dịch của chúng ta mất đi khả năng tự bảo vệ. Điều này khiến cho tình trạng bệnh trở nên trầm trọng.
Chúng tôi sử dụng một mẫu huyết thanh nhỏ từ những người khỏe mạnh để sản xuất một lượng lớn GcMAF trong phòng thí nghiệm vô trùng chuyên biệt của chúng tôi – được gọi là trung tâm xử lý tế bào (CPC).
GcMAF có dạng tiêm, uống và ngậm dưới lưỡi. Sau vài tuần hoặc vài tháng sử dụng, GcMAF sẽ giúp hệ thống miễn dịch được tăng cường mạnh mẽ thông qua việc kích hoạt các đại thực bào. Sau đó, hoạt động tiêu diệt tế bào ung thư, virus, vi khuẩn được đẩy mạnh.
Tác dụng của GcMAF
- Sửa chữa hệ thống miễn dịch.
- Tăng số lượng bạch cầu đơn nhân (đại thực bào) và kích hoạt chúng để tiêu diệt tế bào ung thư, virus, vi khuẩn và các mầm bệnh khác trong cơ thể.
- Tăng cường tác dụng của các liệu pháp điều trị khác.
- Tăng tỷ lệ tăng trưởng của tế bào đuôi gai (DC).
Tổng quan
- Liệu pháp miễn dịch GcMAF được khuyến cáo sử dụng liên tục và tối thiểu trong 6 tháng.
- Đối với bệnh tiến triển nhanh, có thể dùng GcMAF liều cao 3 – 7 lần mỗi tuần. Các liệu trình bổ sung có thể được yêu cầu tùy thuộc vào giai đoạn bệnh và các yếu tố khác đặc trưng cho từng bệnh nhân.
- GcMAF liều cao là cần thiết trong thời gian người bệnh có tế bào ung thư, virus, vi khuẩn và các mầm bệnh khác trong cơ thể.
- Duy trì sử dụng GcMAF lâu dài có thể giảm nguy cơ bệnh tái phát.
Các điểm quan trọng cần lưu ý
- GcMAF không có tác dụng phụ và không gây hại cho cơ thể. Đây là lợi thế đáng kể so với nhiều liệu pháp điều trị khác, thường có độc tính tích lũy gây hại sức khỏe và giới hạn việc sử dụng.
- GcMAF giúp kích hoạt đại thực bào (hệ miễn dịch) nên nó là thành phần quan trọng khi kết hợp cùng các liệu pháp điều trị khác trong tất cả các chương trình điều trị, đặc biệt là ung thư.
- Khi kết hợp cùng các liệu pháp điều trị không gây hại cho hệ thống miễn dịch, GcMAF hoạt động đặc biệt hiệu quả.
GcMAF được cấp bằng sáng chế tại Nhật Bản do phòng khám Saisei Mirai phối hợp với các nhà nghiên cứu từ Đại học Tokushima sau hơn 20 năm nghiên cứu và phát triển. GcMAF của Saisei Mirai cô đặc hơn 10 – 15 lần, nhờ đó hoạt động mạnh hơn và ổn định hơn các loại GcMAF khác.
Đại thực bào là gì?
Đại thực bào (Tiếng Hy Lạp nghĩa là Ăn lớn) là những tế bào được tạo ra bởi sự biệt hóa của bạch cầu đơn nhân, một loại tế bào bạch cầu, trong các mô. Các đại thực bào có chức năng phòng vệ không đặc hiệu (miễn dịch bẩm sinh) cũng như giúp khởi động các cơ chế phòng vệ đặc hiệu (miễn dịch thích ứng) của động vật có xương sống. Vai trò của chúng là thực bào – nghĩa là hấp thụ và tiêu hóa các mảnh vụn tế bào và mầm bệnh, ở dạng tế bào tĩnh hoặc tế bào di động. Chúng cũng kích thích các tế bào lympho và các tế bào miễn dịch khác phản ứng với các tác nhân gây bệnh. Chúng là những tế bào thực bào chuyên biệt tấn công các chất lạ, vi khuẩn lây nhiễm và tế bào ung thư thông qua quá trình tiêu diệt và ăn vào.
Protein liên kết vitamin D
Protein liên kết vitamin D còn được gọi là Protein Gc. Protein Gc là yếu tố kích hoạt đại thực bào cơ bản trong cơ thể chúng ta. Nó được tạo ra trong cơ thể chúng ta, chủ yếu ở gan, đặc biệt là khi chúng ta tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Protein này liên kết với 25 (OH) vitamin D trong cơ thể chúng ta để vận chuyển và lưu trữ. Có nhiều dạng vitamin D BP khác nhau, ưu thế nhất là các protein non-glycosylated Da 656. Vitamin DBP là chất thu gom quan trọng nhất của G-actin ngoại bào, rất quan trọng trong các bệnh về gan.
Vitamin DBP kích hoạt các đại thực bào thông qua Protein Gc biến đổi GalNAc. Vitamin DBP hầu như không ảnh hưởng đến sự phân phối, hấp thụ, cấu hình hoạt hóa hoặc hiệu lực sinh học của hormone vitamin D trong cơ thể chúng ta.
Yếu tố nào gây ảnh hưởng mức vitamin DBP
Bệnh gan làm giảm nồng độ vitamin DBP (GcProtein), ví dụ như bệnh gan mãn tính, suy gan cấp tính… Chấn thương và phẫu thuật cũng sẽ làm giảm vitamin DBP. Hoặc bệnh nhiễm trùng huyết cũng sẽ tiêu thụ vitamin DBP nhanh hơn.
Nồng độ vitamin DBP (Gc Protein) bình thường trong huyết thanh là 350 – 500mg/l. Mức protein Gc dưới 80mg/l sẽ gây ra tỉ lệ tử vong dương tính và âm tính là 85% và 43%. Những người sống sót có mức độ vitamin DBP lớn 102mg/l.
Yếu tố kích hoạt đại thực bào là gì?
Yếu tố kích hoạt đại thực bào (MAF) là các glycoprotein làm tăng hoạt động của đại thực bào và biến đổi chúng thành tế bào tiêu diệt tự nhiên (NK). Vitamin DBP (Gc Protein) là MAF quan trọng và chính yếu. Protein Gc được glycosyl hóa là MAF tốt nhất.
NaGalase (Alpha-N-acetylgalactosaminidase)
NaGalase là một loại enzyme được sản xuất với một lượng nhỏ trong các tế bào gan khỏe mạnh.
NaGalase có thể gây hại gì?
Alpha-N-acetylgalactosaminidase (Alpha-NaGaLase) được sản xuất với một lượng lớn bởi các tế bào ung thư. Alpha-NaGaLase loại bỏ các trisaccharide của Protein Gc ở bước trước khi đồng dạng cuối cùng của MAF. Alpha-NaGaLase từ các khối u gây ra trạng thái ức chế miễn dịch cho phép ung thư di căn và cuối cùng dẫn đến tử vong do nhiễm trùng.
NaGaLase còn được tìm thấy ở đâu?
NaGaLase được sản xuất bởi vi khuẩn, tế bào bị nhiễm virus và nấm.
Nồng độ NaGaLase trong huyết thanh bình thường
Mức bình thường của NaGaLase nằm trong khoảng 0,38 đến 0,63 nmole/ phút/ mg protein. Những người bị ung thư có NaGaLase trên 2,32 nmole/ phút/ mg protein.
Xạ trị làm giảm số lượng tế bào ung thư có khả năng tiết ra alpha-NaGaLase. Bức xạ cũng làm tăng hoạt hóa Protein Gc thành MAF nguyên tắc. Xạ trị và liệu pháp quang động làm giảm hoạt động của NaGaLase.
Liệu pháp GcMAF điều trị các bệnh gì?
- Liệu pháp kích hoạt đại thực bào Gc-MAF rất hữu ích trong điều trị bệnh, chẳng hạn như ung thư, HIV AIDS, vi rút viêm gan B (HBV), vi rút viêm gan C (HCV), vi rút Herpes Simplex (HSV), Lao, nhiễm trùng viêm phổi, Epstein-Virus Barr (EBV), viêm bàng quang/ nhiễm trùng đường tiết niệu (UTI), Lạc nội mạc tử cung, Rối loạn thiếu hụt IgA có chọn lọc và vi rút cúm.
- Ở những người khỏe mạnh, hệ thống miễn dịch có thể vượt qua nhiều loại bệnh tật, tuy nhiên những người có hệ thống miễn dịch bị tổn thương sẽ được hỗ trợ rất tốt từ GcMAF.
GcMAF được kết hợp với các phương pháp điều trị khác
GcMAF có thể được sử dụng một cách an toàn với nhiều loại thuốc và phương pháp điều trị tiêu chuẩn khác để cải thiện tác dụng của chúng. Chúng tôi gọi đây là thuốc tích hợp.
- Có thể kết hợp với thuốc chống ung thư và xạ trị. Để đạt được hiệu quả tối đa từ GcMAF, nên dùng thuốc cách xa một vài ngày sau khi hóa trị liệu. Xạ trị không có ảnh hưởng đáng kể đến GcMAF, vì vậy cả hai có thể được sử dụng cùng nhau bất cứ lúc nào. Dựa trên các nghiên cứu lâm sàng, chúng tôi đã quan sát thấy hiệu quả tiêu diệt tế bào ung thư đáng kể do GcMAF kết hợp với xạ trị ở những bệnh nhân ung thư từng sử dụng hóa trị liệu trước đó.
- Các nghiên cứu cho thấy GcMAF có tác dụng chống tạo mạch ngoài hoạt động tiêu diệt khối u thông qua việc kích hoạt các đại thực bào.
- GcMAF có thể được kết hợp với liệu pháp Sonodynamic (SDT), liệu pháp quang động (PDT) hoặc cả hai Sonophotodynamic – SPDT, Coley vaccine, truyền tĩnh mạch vitamin C liều cao, liệu pháp tăng thân nhiệt, liệu pháp miễn dịch và vaccine ung thư.
- GcMAF nên được sử dụng kết hợp ít nhất với 5000 IU vitamin D3 mỗi ngày. Nồng độ vitamin D trong máu thường bị thấp khi bệnh nhân mắc bệnh HIV AIDS, ung thư, bệnh gan… Mức vitamin D bình thường là cần thiết để GcMAF hoạt động đầy đủ và hiệu quả.
ĐẶT LỊCH TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ TẠI NƯỚC NGOÀI
Điện thoại
0937 53 45 45
info.fclinic@gmail.com